Thơ Ghazal và Qadisa
(1936)
Diván
del Tamarit
(1936)
GACELA (5)
28.BÀI THƠ VỀ TÌNH TUYỆT VỌNG
Màn đêm không buông
xuống
Để anh không thể đến
Và để em không thể đến với anh.
Nhưng mà anh sẽ đến với em
Dù con bọ cạp bám vào cái nóng.
Và em sẽ đến, dù cho
Dù cho cơn mưa đốt trên môi nước mặn.
Màn đêm không nâng lên
Để anh không thể đến
Và để em không thể đến với anh.
Nhưng anh sẽ đến
Vứt cho những chú cóc chùm hoa như lửa cháy.
Nhưng em sẽ đến
Với mê lộ của đêm, không còn đường quay trở lại.
Màn đêm không buông xuống, nâng lên
Để cho anh chết mà chẳng có em
Và em chết cũng không có anh như vậy.
Để anh không thể đến
Và để em không thể đến với anh.
Nhưng mà anh sẽ đến với em
Dù con bọ cạp bám vào cái nóng.
Và em sẽ đến, dù cho
Dù cho cơn mưa đốt trên môi nước mặn.
Màn đêm không nâng lên
Để anh không thể đến
Và để em không thể đến với anh.
Nhưng anh sẽ đến
Vứt cho những chú cóc chùm hoa như lửa cháy.
Nhưng em sẽ đến
Với mê lộ của đêm, không còn đường quay trở lại.
Màn đêm không buông xuống, nâng lên
Để cho anh chết mà chẳng có em
Và em chết cũng không có anh như vậy.
Gacela del amor desesperado
La noche no quiere
venir
para que tú no vengas,
ni yo pueda ir.
para que tú no vengas,
ni yo pueda ir.
Pero yo iré,
aunque un sol de alacranes me coma la sien.
aunque un sol de alacranes me coma la sien.
Pero tú vendrás
con la lengua quemada por la lluvia de sal.
con la lengua quemada por la lluvia de sal.
El día no quiere
venir
para que tú no vengas,
ni yo pueda ir.
para que tú no vengas,
ni yo pueda ir.
Pero yo iré
entregando a los sapos mi mordido clavel.
entregando a los sapos mi mordido clavel.
Pero tú vendrás
por las turbias cloacas de la oscuridad.
por las turbias cloacas de la oscuridad.
Ni la noche ni el día
quieren venir
para que por ti muera
y tú mueras por mí.
para que por ti muera
y tú mueras por mí.
29.HOÀI NIỆM CỦA TÌNH
YÊU
Còn lại đây dù bóng của người thương
Nhưng kí ức về tình còn âu yếm
Tiếng xào xạc của anh đào dịu dàng
Trong cái đêm tháng giêng đau điếng.
Trong giấc mộng cuồng điên, cái chết
Cùng ta sống dưới một mái nhà
Và nước mắt như mật của hàng thồ
Trong con tim bằng thạch cao đã kiệt.
Đôi mắt của anh lang thang dạo bước
Như những con chó không nhà
Suốt đêm trong khu vườn nhởn nhơ
Giữa những quả đã tưới đầy thuốc độc.
Hơi lạnh có thổi lên ngọn gió
Nỗi kinh hoàng có lúc lắc cành hoa
Còn hoàng hôn của mùa đông sớm thế
Đen hơn cả đau đớn trúc quì.
Những người chết đang đợi ánh bình minh
Sau cánh cửa của đem đen mộng mị
Và làn khói trắng đang quấn tã
Lên thân hình của thung lũng lặng im.
Sau cửa tò vò của lần anh gặp em
Đang hồi tưởng, cháy lên ngọn nến
Hãy xua đi bóng của người thương
Nhưng hoài niệm về mình xin âu yếm.
Gacela del recuerdo del amor.
Còn lại đây dù bóng của người thương
Nhưng kí ức về tình còn âu yếm
Tiếng xào xạc của anh đào dịu dàng
Trong cái đêm tháng giêng đau điếng.
Trong giấc mộng cuồng điên, cái chết
Cùng ta sống dưới một mái nhà
Và nước mắt như mật của hàng thồ
Trong con tim bằng thạch cao đã kiệt.
Đôi mắt của anh lang thang dạo bước
Như những con chó không nhà
Suốt đêm trong khu vườn nhởn nhơ
Giữa những quả đã tưới đầy thuốc độc.
Hơi lạnh có thổi lên ngọn gió
Nỗi kinh hoàng có lúc lắc cành hoa
Còn hoàng hôn của mùa đông sớm thế
Đen hơn cả đau đớn trúc quì.
Những người chết đang đợi ánh bình minh
Sau cánh cửa của đem đen mộng mị
Và làn khói trắng đang quấn tã
Lên thân hình của thung lũng lặng im.
Sau cửa tò vò của lần anh gặp em
Đang hồi tưởng, cháy lên ngọn nến
Hãy xua đi bóng của người thương
Nhưng hoài niệm về mình xin âu yếm.
Gacela del recuerdo del amor.
No te lleves tu recuerdo.
Déjalo solo en mi pecho,
temblor de blanco cerezo
en el martirio de enero.
Me separa de los muertos
un muro de malos sueños.
Doy pena de lirio fresco
para un corazón de yeso.
Toda la noche en el huerto
mis ojos, como dos perros.
Toda la noche, comiendo
los membrillos de veneno.
Algunas veces el viento
es un tulipán de miedo,
es un tulipán enfermo,
la madrugada de invierno.
Un muro de malos sueños
me separa de los muertos.
La niebla cubre en silencio
el valle gris de tu cuerpo.
Por el arco del encuentro
la cicuta está creciendo.
Pero deja tu recuerdo
déjalo sólo en mi pecho.
30.BÀI THƠ VỀ CÁI
CHẾT MÀU ĐEN
Muốn ngủ say bằng
giấc mơ của táo mùa thu
Tránh cái cảnh chen
chúc ngoài nghĩa địa
Muốn ngủ say bằng
giấc mơ đứa bé
Mơ ném con tim vào
biển mịt mù.
Đừng nói rằng người
chết máu vẫn còn
Rằng bờ môi héo hon
đòi uống nước.
Đừng nhắc lại rằng cỏ
hoa đau tức
Rằng miệng như con
rắn của trăng non.
Xin mọi người hãy cứ
để cho tôi
Ngủ một trăm năm, một
thời gian, một phút
Để tất cả hiểu rằng
tôi không chết
Rằng máng cỏ vàng -
là những bờ môi
Rằng tôi là bạn của
ngọn gió tây
Là cái bóng lớn của
dòng nước mắt.
Buổi bình minh xin
che mặt cho tôi
Để bầy kiến không bò
lên đôi mắt
Và hãy rửa bàn chân
bằng nước ướt
Để những con bọ cạp
sẽ co vòi.
Muốn ngủ say – nhưng
bằng giấc mơ của táo mùa thu
Học tiếng khóc rửa
sạch làu trái đất
Vì muốn ở lại trong
đứa con loạn lạc
Muốn vứt con tim vào
biển mịt mù.
Gacela de la muerte oscura
Quiero dormir el
sueño de las manzanas
alejarme del tumulto de los cementerios.
Quiero dormir el sueño de aquel niño
que quería cortarse el corazón en alta mar.
No quiero que me repitan que los muertos no pierden la sangre;
que la boca podrida sigue pidiendo agua.
No quiero enterarme de los martirios que da la hierba,
ni de la luna con boca de serpiente
que trabaja antes del amanecer.
Quiero dormir un rato,
un rato, un minuto, un siglo;
pero que todos sepan que no he muerto;
que haya un establo de oro en mis labios;
que soy un pequeño amigo del viento Oeste;
que soy la sombra inmensa de mis lágrimas.
Cúbreme por la aurora con un velo,
porque me arrojará puñados de hormigas,
y moja con agua dura mis zapatos
para que resbale la pinza de su alacrán.
Porque quiero dormir el sueño de las manzanas
para aprender un llanto que me limpie de tierra;
porque quiero vivir con aquel niño oscuro
que quería cortarse el corazón en alta mar.
alejarme del tumulto de los cementerios.
Quiero dormir el sueño de aquel niño
que quería cortarse el corazón en alta mar.
No quiero que me repitan que los muertos no pierden la sangre;
que la boca podrida sigue pidiendo agua.
No quiero enterarme de los martirios que da la hierba,
ni de la luna con boca de serpiente
que trabaja antes del amanecer.
Quiero dormir un rato,
un rato, un minuto, un siglo;
pero que todos sepan que no he muerto;
que haya un establo de oro en mis labios;
que soy un pequeño amigo del viento Oeste;
que soy la sombra inmensa de mis lágrimas.
Cúbreme por la aurora con un velo,
porque me arrojará puñados de hormigas,
y moja con agua dura mis zapatos
para que resbale la pinza de su alacrán.
Porque quiero dormir el sueño de las manzanas
para aprender un llanto que me limpie de tierra;
porque quiero vivir con aquel niño oscuro
que quería cortarse el corazón en alta mar.
31.BÀI THƠ VỀ TÌNH
YÊU KỲ DIỆU
Lửa và thạch cao
Của đất hoang tàn
nhẫn
Em là nước trong tim
trên cánh hoa nhài.
Lửa và ánh chớp
Của bầu trời nhẫn tâm
Em là tiếng xạc xào
trong tim của tuyết.
Đất hoang và bầu trời
Trói đôi bàn tay tôi
rất chặt.
Đất hoang và bầu trời
Quất roi lên vết
thương của xác thân tôi.
Gacela del amor maravilloso.
Con todo el yeso
de los malos campos,
eras junco de amor, jazmín mojado.
Con sur y llamas
de los malos cielos,
eres rumor de nieve por mi pecho.
Cielos y campos
anudaban cadenas en mis manos.
Campos y cielos
azotaban las llagas de mi cuerpo.
de los malos campos,
eras junco de amor, jazmín mojado.
Con sur y llamas
de los malos cielos,
eres rumor de nieve por mi pecho.
Cielos y campos
anudaban cadenas en mis manos.
Campos y cielos
azotaban las llagas de mi cuerpo.
32.BÀI THƠ VỀ SỰ CHẠY
TRỐN
Tôi nhiều lần đã bị
mất trong biển
Với ký ức và hoa cỏ
rắc đầy
Có đầy đủ tình yêu và
đau đớn
Tôi nhiều lần đã bị
mất trong biển
Hễ bị mất trong tim
của trẻ em.
Không có đêm, mà đem
cho nụ hôn
Không cảm nhận nụ
cười vô tư lự
Không có người bên
nôi trẻ sơ sinh
Không nhớ về hộp sọ dừa của ngựa.
Bởi một điều khi đi
tìm hoa hồng –
Hình phù điêu chìm
khắc nghiệt của xương
Và một điều đôi bàn
tay thành thạo –
Bắt chước theo những
bộ rễ đã chôn.
Hễ bị mất trong tim
của trẻ em
Tôi nhiều lần đã bị
mất trong biển.
Kẻ mù quáng, cái chết
tôi đi tìm
Cái chết đủ đầy của
ngày cuối tận.
Gacela de la huida
Me he perdido muchas
veces por el mar
con el oído lleno de flores recién cortadas,
con la lengua llena de amor y de agonía.
Muchas veces me he perdido por el mar,
como me pierdo en el corazón de algunos niños.
No hay noche que, al dar un beso,
no sienta la sonrisa de las gentes sin rostro,
ni hay nadie que, al tocar un recién nacido,
olvide las inmóviles calaveras de caballo.
Porque las rosas buscan en la frente
un duro paisaje de hueso
y las manos del hombre no tienen más sentido
que imitar a las raíces bajo tierra.
Como me pierdo en el corazón de algunos niños,
me he perdido muchas veces por el mar.
Ignorante del agua voy buscando
una suerte de luz que me consuma.
con el oído lleno de flores recién cortadas,
con la lengua llena de amor y de agonía.
Muchas veces me he perdido por el mar,
como me pierdo en el corazón de algunos niños.
No hay noche que, al dar un beso,
no sienta la sonrisa de las gentes sin rostro,
ni hay nadie que, al tocar un recién nacido,
olvide las inmóviles calaveras de caballo.
Porque las rosas buscan en la frente
un duro paisaje de hueso
y las manos del hombre no tienen más sentido
que imitar a las raíces bajo tierra.
Como me pierdo en el corazón de algunos niños,
me he perdido muchas veces por el mar.
Ignorante del agua voy buscando
una suerte de luz que me consuma.
CASIDAS (3)
33.BÀI THƠ VỀ TIẾNG
KHÓC
Tôi đóng hết cửa
ban-công
Để ẩn náu mình sau
tiếng khóc
Nhưng sau bức tường
xám lạnh lạnh lùng
Không nghe thấy gì,
ngoài tiếng khóc.
Không nghe tiếng của
thiên thần
Tiếng chó sủa không
còn sức mạnh
Và tiếng một nghìn
cây vĩ cầm
Lọt thỏm trong bàn
tay tôi nhỏ nhắn.
Chỉ tiếng khóc là
thiên thần duy nhất
Chỉ con chó là tiếng
khóc lớn nhất
Tiếng khóc như cây vĩ
cầm mênh mang
Và cơn gió bỗng nghẹ
ngào nước mắt
Không nghe thấy gì
chỉ còn tiếng khóc.
Casida del llanto
He cerrado mi balcón
por que no quiero oír el llanto
pero por detrás de los grises muros
no se oye otra cosa que el llanto.
Hay muy pocos ángeles que canten,
hay muy pocos perros que ladren,
mil violines caben en la palma de mi mano.
Pero el llanto es un perro inmenso,
el llanto es un ángel inmenso,
el llanto es un violín inmenso,
las lágrimas amordazan al viento,
no se oye otra cosa que el llanto.
por que no quiero oír el llanto
pero por detrás de los grises muros
no se oye otra cosa que el llanto.
Hay muy pocos ángeles que canten,
hay muy pocos perros que ladren,
mil violines caben en la palma de mi mano.
Pero el llanto es un perro inmenso,
el llanto es un ángel inmenso,
el llanto es un violín inmenso,
las lágrimas amordazan al viento,
no se oye otra cosa que el llanto.
34.BÀI THƠ VỀ BÀN TAY KHÔNG THỂ CÓ
Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Bàn tay bị thương, nếu như có thể
Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Dù cả nghìn đêm không còn giường ngủ.
Giá mà được màu thạch cao trắng toát
Chim bồ câu đem buộc chặt vào tim
Cô y tá như vầng trăng mờ mịt
Đêm cuối cùng không được ghé vô thăm.
Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Để mặc áo, xức dầu cho đau đớn
Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Cho cái chết sau này đôi cánh trắng.
Tất cả trong đời rồi sẽ qua nhanh
Cả ngân hà và hồi quang ngời sáng
Chỉ còn lại cơn gió buồn khóc rống
Về mùa thu, những chiếc lá cuối cùng.
Casida de la mano imposible
Yo no quiero más que
una mano,
una mano herida, si es posible.
Yo no quiero más que una mano,
aunque pase mil noches sin lecho.
Sería un pálido lirio de cal,
sería una paloma amarrada a mi corazón,
sería el guardían que en la noche de mi tránsito
prohibiera en absoluto la entrada a la luna.
Yo no quiero más que esa mano
para los diarios aceites y la sábana blanca de mi agonía
Yo no quiero más que esa mano
para tener un ala de mi muerte.
Lo demás todo pasa.
Rubor sin nombre ya, astro perpetuo.
Lo demás es lo otro; viento triste,
mientras las hojas huyen en bandadas.
una mano herida, si es posible.
Yo no quiero más que una mano,
aunque pase mil noches sin lecho.
Sería un pálido lirio de cal,
sería una paloma amarrada a mi corazón,
sería el guardían que en la noche de mi tránsito
prohibiera en absoluto la entrada a la luna.
Yo no quiero más que esa mano
para los diarios aceites y la sábana blanca de mi agonía
Yo no quiero más que esa mano
para tener un ala de mi muerte.
Lo demás todo pasa.
Rubor sin nombre ya, astro perpetuo.
Lo demás es lo otro; viento triste,
mientras las hojas huyen en bandadas.
35.BÀI THƠ VỀ HOA
HỒNG
Hoa hồng
Đã không còn đi tìm
ánh bình minh
Mà hoa đi tìm
Hoa đi tìm cái khác.
Giờ ánh sáng hoa
không còn khao khát
Cả bóng tối và cơn
nóng cũng không
Trong cõi mơ màng
Hoa đi tìm cái khác.
Hoa hồng
Nằm bất động dưới
trăng
Không tìm kiếm hoa
hồng
Hoa đi tìm cái khác.
Casida de la rosa
La rosa
no buscaba la aurora:
casi eterna en su ramo,
buscaba otra cosa.
La rosa,
no buscaba ni ciencia ni sombra:
confín de carne y sueño,
buscaba otra cosa.
La rosa,
no buscaba la rosa.
Inmóvil por el cielo
buscaba otra cosa.
no buscaba la aurora:
casi eterna en su ramo,
buscaba otra cosa.
La rosa,
no buscaba ni ciencia ni sombra:
confín de carne y sueño,
buscaba otra cosa.
La rosa,
no buscaba la rosa.
Inmóvil por el cielo
buscaba otra cosa.