Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016

Thơ Lorca (Phần 4)


Thơ Ghazal và Qadisa
(1936)
Diván del Tamarit
(1936)

GACELA (5) 

28.BÀI THƠ VỀ TÌNH TUYỆT VỌNG

Màn đêm không buông xuống
Để anh không thể đến
Và để em không thể đến với anh.

Nhưng mà anh sẽ đến với em
Dù con bọ cạp bám vào cái nóng.

Và em sẽ đến, dù cho
Dù cho cơn mưa đốt trên môi nước mặn.

Màn đêm không nâng lên
Để anh không thể đến
Và để em không thể đến với anh.

Nhưng anh sẽ đến
Vứt cho những chú cóc chùm hoa như lửa cháy.

Nhưng em sẽ đến
Với mê lộ của đêm, không còn đường quay trở lại.

Màn đêm không buông xuống, nâng lên
Để cho anh chết mà chẳng có em
Và em chết cũng không có anh như vậy.

Gacela del amor desesperado

La noche no quiere venir
para que tú no vengas,
ni yo pueda ir.

Pero yo iré,
aunque un sol de alacranes me coma la sien.

Pero tú vendrás
con la lengua quemada por la lluvia de sal.

El día no quiere venir
para que tú no vengas,
ni yo pueda ir.

Pero yo iré
entregando a los sapos mi mordido clavel.

Pero tú vendrás
por las turbias cloacas de la oscuridad.

Ni la noche ni el día quieren venir
para que por ti muera
y tú mueras por mí.



29.HOÀI NIỆM CỦA TÌNH YÊU

Còn lại đây dù bóng của người thương
Nhưng kí ức về tình còn âu yếm

Tiếng xào xạc của anh đào dịu dàng
Trong cái đêm tháng giêng đau điếng.

Trong giấc mộng cuồng điên, cái chết
Cùng ta sống dưới một mái nhà

Và nước mắt như mật của hàng thồ
Trong con tim bằng thạch cao đã kiệt.

Đôi mắt của anh lang thang dạo bước
Như những con chó không nhà

Suốt đêm trong khu vườn nhởn nhơ
Giữa những quả đã tưới đầy thuốc độc.

Hơi lạnh có thổi lên ngọn gió
Nỗi kinh hoàng có lúc lắc cành hoa

Còn hoàng hôn của mùa đông sớm thế
Đen hơn cả đau đớn trúc quì.

Những người chết đang đợi ánh bình minh
Sau cánh cửa của đem đen mộng mị

Và làn khói trắng đang quấn tã
Lên thân hình của thung lũng lặng im.

Sau cửa tò vò của lần anh gặp em
Đang hồi tưởng, cháy lên ngọn nến

Hãy xua đi bóng của người thương
Nhưng hoài niệm về mình xin âu yếm.

Gacela del recuerdo del amor.

No te lleves tu recuerdo.
Déjalo solo en mi pecho,

temblor de blanco cerezo
en el martirio de enero.

Me separa de los muertos
un muro de malos sueños.

Doy pena de lirio fresco
para un corazón de yeso.

Toda la noche en el huerto
mis ojos, como dos perros.

Toda la noche, comiendo
los membrillos de veneno.

Algunas veces el viento
es un tulipán de miedo,

es un tulipán enfermo,
la madrugada de invierno.

Un muro de malos sueños
me separa de los muertos.

La niebla cubre en silencio
el valle gris de tu cuerpo.

Por el arco del encuentro
la cicuta está creciendo.

Pero deja tu recuerdo
déjalo sólo en mi pecho.




30.BÀI THƠ VỀ CÁI CHẾT MÀU ĐEN

Muốn ngủ say bằng giấc mơ của táo mùa thu
Tránh cái cảnh chen chúc ngoài nghĩa địa
Muốn ngủ say bằng giấc mơ đứa bé
Mơ ném con tim vào biển mịt mù.

Đừng nói rằng người chết máu vẫn còn
Rằng bờ môi héo hon đòi uống nước.
Đừng nhắc lại rằng cỏ hoa đau tức
Rằng miệng như con rắn của trăng non.

Xin mọi người hãy cứ để cho tôi
Ngủ một trăm năm, một thời gian, một phút
Để tất cả hiểu rằng tôi không chết
Rằng máng cỏ vàng - là những bờ môi
Rằng tôi là bạn của ngọn gió tây
Là cái bóng lớn của dòng nước mắt.

Buổi bình minh xin che mặt cho tôi
Để bầy kiến không bò lên đôi mắt
Và hãy rửa bàn chân bằng nước ướt
Để những con bọ cạp sẽ co vòi.

Muốn ngủ say – nhưng bằng giấc mơ của táo mùa thu
Học tiếng khóc rửa sạch làu trái đất
Vì muốn ở lại trong đứa con loạn lạc
Muốn vứt con tim vào biển mịt mù.

Gacela de la muerte oscura

Quiero dormir el sueño de las manzanas
alejarme del tumulto de los cementerios.
Quiero dormir el sueño de aquel niño
que quería cortarse el corazón en alta mar.

No quiero que me repitan que los muertos no pierden la sangre;
que la boca podrida sigue pidiendo agua.
No quiero enterarme de los martirios que da la hierba,
ni de la luna con boca de serpiente
que trabaja antes del amanecer.

Quiero dormir un rato,
un rato, un minuto, un siglo;
pero que todos sepan que no he muerto;
que haya un establo de oro en mis labios;
que soy un pequeño amigo del viento Oeste;
que soy la sombra inmensa de mis lágrimas.

Cúbreme por la aurora con un velo,
porque me arrojará puñados de hormigas,
y moja con agua dura mis zapatos
para que resbale la pinza de su alacrán.

Porque quiero dormir el sueño de las manzanas
para aprender un llanto que me limpie de tierra;
porque quiero vivir con aquel niño oscuro
que quería cortarse el corazón en alta mar.



31.BÀI THƠ VỀ TÌNH YÊU KỲ DIỆU

Lửa và thạch cao
Của đất hoang tàn nhẫn
Em là nước trong tim trên cánh hoa nhài.

Lửa và ánh chớp
Của bầu trời nhẫn tâm
Em là tiếng xạc xào trong tim của tuyết.

Đất hoang và bầu trời
Trói đôi bàn tay tôi rất chặt.

Đất hoang và bầu trời
Quất roi lên vết thương của xác thân tôi.

Gacela del amor maravilloso.

Con todo el yeso
de los malos campos,
eras junco de amor, jazmín mojado.

Con sur y llamas
de los malos cielos,
eres rumor de nieve por mi pecho.

Cielos y campos
anudaban cadenas en mis manos.

Campos y cielos
azotaban las llagas de mi cuerpo.




32.BÀI THƠ VỀ SỰ CHẠY TRỐN

Tôi nhiều lần đã bị mất trong biển
Với ký ức và hoa cỏ rắc đầy
Có đầy đủ tình yêu và đau đớn
Tôi nhiều lần đã bị mất trong biển
Hễ bị mất trong tim của trẻ em.

Không có đêm, mà đem cho nụ hôn
Không cảm nhận nụ cười vô tư lự
Không có người bên nôi trẻ sơ sinh
Không  nhớ về hộp sọ dừa của ngựa.

Bởi một điều khi đi tìm hoa hồng –
Hình phù điêu chìm khắc nghiệt của xương
Và một điều đôi bàn tay thành thạo –
Bắt chước theo những bộ rễ đã chôn.

Hễ bị mất trong tim của trẻ em
Tôi nhiều lần đã bị mất trong biển.
Kẻ mù quáng, cái chết tôi đi tìm
Cái chết đủ đầy của ngày cuối tận.

Gacela de la huida

Me he perdido muchas veces por el mar
con el oído lleno de flores recién cortadas,
con la lengua llena de amor y de agonía.
Muchas veces me he perdido por el mar,
como me pierdo en el corazón de algunos niños.

No hay noche que, al dar un beso,
no sienta la sonrisa de las gentes sin rostro,
ni hay nadie que, al tocar un recién nacido,
olvide las inmóviles calaveras de caballo.

Porque las rosas buscan en la frente
un duro paisaje de hueso
y las manos del hombre no tienen más sentido
que imitar a las raíces bajo tierra.

Como me pierdo en el corazón de algunos niños,
me he perdido muchas veces por el mar.
Ignorante del agua voy buscando
una suerte de luz que me consuma.
  
CASIDAS (3)
 
33.BÀI THƠ VỀ TIẾNG KHÓC

Tôi đóng hết cửa ban-công
Để ẩn náu mình sau tiếng khóc
Nhưng sau bức tường xám lạnh lạnh lùng
Không nghe thấy gì, ngoài tiếng khóc.

Không nghe tiếng của thiên thần
Tiếng chó sủa không còn sức mạnh
Và tiếng một nghìn cây vĩ cầm
Lọt thỏm trong bàn tay tôi nhỏ nhắn.

Chỉ tiếng khóc là thiên thần duy nhất
Chỉ con chó là tiếng khóc lớn nhất
Tiếng khóc như cây vĩ cầm mênh mang
Và cơn gió bỗng nghẹ ngào nước mắt
Không nghe thấy gì chỉ còn tiếng khóc.

Casida del llanto

He cerrado mi balcón
por que no quiero oír el llanto
pero por detrás de los grises muros
no se oye otra cosa que el llanto.

Hay muy pocos ángeles que canten,
hay muy pocos perros que ladren,
mil violines caben en la palma de mi mano.

Pero el llanto es un perro inmenso,
el llanto es un ángel inmenso,
el llanto es un violín inmenso,
las lágrimas amordazan al viento,
no se oye otra cosa que el llanto.




34.BÀI THƠ VỀ BÀN TAY KHÔNG THỂ CÓ

Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Bàn tay bị thương, nếu như có thể
Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Dù cả nghìn đêm không còn giường ngủ.

Giá mà được màu thạch cao trắng toát
Chim bồ câu đem buộc chặt vào tim
Cô y tá như vầng trăng mờ mịt
Đêm cuối cùng không được ghé vô thăm.

Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Để mặc áo, xức dầu cho đau đớn
Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Cho cái chết sau này đôi cánh trắng.

Tất cả trong đời rồi sẽ qua nhanh
Cả ngân hà và hồi quang ngời sáng
Chỉ còn lại cơn gió buồn khóc rống
Về mùa thu, những chiếc lá cuối cùng.

Casida de la mano imposible

Yo no quiero más que una mano,
una mano herida, si es posible.
Yo no quiero más que una mano,
aunque pase mil noches sin lecho.

Sería un pálido lirio de cal,
sería una paloma amarrada a mi corazón,
sería el guardían que en la noche de mi tránsito
prohibiera en absoluto la entrada a la luna.

Yo no quiero más que esa mano
para los diarios aceites y la sábana blanca de mi agonía
Yo no quiero más que esa mano
para tener un ala de mi muerte.

Lo demás todo pasa.
Rubor sin nombre ya, astro perpetuo.
Lo demás es lo otro; viento triste,
mientras las hojas huyen en bandadas.



35.BÀI THƠ VỀ HOA HỒNG

Hoa hồng
Đã không còn đi tìm ánh bình minh
Mà hoa đi tìm
Hoa đi tìm cái khác.

Giờ ánh sáng hoa không còn khao khát
Cả bóng tối và cơn nóng cũng không
Trong cõi mơ màng
Hoa đi tìm cái khác.

Hoa hồng
Nằm bất động dưới trăng
Không tìm kiếm hoa hồng
Hoa đi tìm cái khác.

Casida de la rosa

La rosa
no buscaba la aurora:
casi eterna en su ramo,
buscaba otra cosa.

La rosa,
no buscaba ni ciencia ni sombra:
confín de carne y sueño,
buscaba otra cosa.

La rosa,
no buscaba la rosa.
Inmóvil por el cielo
buscaba otra cosa.


Thơ Federico García Lorca Song Ngữ (Phần 5)


Thơ về tình yêu màu đen (1936)
Sonetos del amor oscuro (1936)

Soneto (3 bài)

36.ĐỂ NGƯỜI YÊU SẼ VIẾT THƯ

Tình yêu sâu như cái chết, như mùa xuân
Anh phí hoài đợi chờ thư em đó
Không nghi ngờ rằng bông hoa đã úa
Sống ở trong em thật khó cho anh.

Không khí thì bất tử. Đá thì cứng vô cùng
Đá không biết và không đi khỏi bóng
Không cần đá cho con tim sôi động
Mật đóng băng – trăng sáng giữa đồi thông.

Anh đau em. Anh vạch máu đi tìm
Có rắn và hoa, bồ câu và hổ báo
Trong máu này có hình bóng của em.

Hãy rót lời vào cơn mộng mị của anh
Hoặc cho anh chìm vào đêm quên lãng
Đêm của hồn với giấc mộng chửa từng quen.

El poeta pide a su amor que le escriba

Amor de mis entrañas, viva muerte,
en vano espero tu palabra escrita
y pienso, con la flor que se marchita,
que si vivo sin mí quiero perderte.

El aire es inmortal. La piedra inerte
Ni conoce la sombra ni la evita.
Corazón interior no necesita
la miel helada que la luna vierte.

Pero yo te sufrí. Rasgué mis venas,
tigre y paloma, sobre tu cintura
en duelo de mordiscos y azucenas.

Llena, pues, de palabras mi locura
o déjame vivir en mi serena
noche del alma para siempre oscura.


37.SONNET LỜI OÁN TRÁCH NGỌT NGÀO

Anh sợ đánh mất điều kì diệu trắng trong
Đôi mắt ướt của em chỉ còn im lặng
Anh sợ, trong cái đêm này anh đã chẳng
Áp mặt vào hơi thở của hoa hồng.

Anh sợ rằng đống lá chết từ lâu
Lên bờ bến bí huyền kia sẽ trải
Anh không muốn mang theo mình cây trái
Nơi giấu mình đau đớn những loài sâu.

Nếu kho báu của anh em đã mang theo
Nếu em là nỗi đau của anh, thì đừng thương xót nhé
Nếu, thậm chí với em, anh chỉ là con chó.

Thì bông lúa của mất mát cuối cùng em đừng cắt bỏ
Và hãy để trên dòng sông em rắc những chiếc lá vàng
Rụng xuống từ mùa thu đã đi qua của anh.


Soneto de la dulce queja

Tengo miedo a perder la maravilla
de tus ojos de estatua y el acento
que me pone de noche en la mejilla
la solitaria rosa de tu aliento.

Tengo pena de ser en esta orilla
tronco sin ramas, y lo que más siento
es no tener la flor, pulpa o arcilla,
para el gusano de mi sufrimiento.

Si tú eres el tesoro oculto mío,
si eres mi cruz y mi dolor mojado,
si soy el perro de tu señorío.

No me dejes perder lo que he ganado
y decora las aguas de tu río
con hojas de mi Otoño enajenado.


38.TÌNH YÊU NGỦ TRONG NGỰC NHÀ THƠ

Em đâu hiểu anh yêu đến mức nào
Em ngủ say giữa lòng anh như thế
Anh giấu em, hôn em và nức nở
Trong tiếng kêu của dao thép xuyên vào.

Cả xác thân và cả những vì sao
Đã làm cho lồng ngực này đau đớn
Và đôi cánh đã làm cho cơn giận
Bỗng dâng trào như vết cắn của dao.

Giờ người ta đang nhảy trong khu vườn
Đợi xác thân và tiếng lòng nức nở
Bờm ngựa ngời lên ánh sáng màu xanh

Hãy ngủ yên, lẽ sống của đời anh
Em có nghe trong cây đàn máu vỡ
Và đang đợi chờ cả em và anh.

El amor duerme en el pecho del poeta

Tú nunca entenderás lo que te quiero
porque duermes en mí y estás dormido.
Yo te oculto llorando, perseguido
por una voz de penetrante acero.

Norma que agita igual carne y lucero
traspasa ya mi pecho dolorido
y las turbias palabras han mordido
las alas de tu espíritu severo.

Grupo de gente salta en los jardines
esperando tu cuerpo y mi agonía
en caballos de luz y verdes crines.

Pero sigue durmiendo, vida mía.
Oye mi sangre rota en los violines.
¡Mira que nos acechan todavía!

 

Poemas sueltos
Thơ tổng hợp

39.TỔ KHÚC GƯƠNG

Biểu tượng

Chúa Giê-su
Cầm trong mỗi bàn tay
Là một chiếc gương.
Hình bóng Ngài rung
Và được nhân lên.
Những ánh nhìn màu đen
Bằng trái tim
Làm cho hoàn chỉnh.
Tôi tin!

Gương lớn

Chúng ta đang sống
Dưới một tấm gương lớn
Con người là màu xanh!
Hosanna!

Sự phản chiếu

Chị Hằng
(Là thủy ngân rót ra chăng?)
Không hẳn thế.
Cậu bé con nào thắp lửa
Cho đèn của chị Hằng?

Chỉ con bướm bay lên
Là tất cả chìm vào bóng đêm.
Không thể nào… xin im lặng
Đấy là đom đóm
Đấy là trăng.

Những tia sáng

Tất cả xung quanh là chiếc quạt mở to
Người anh em, hãy mở rộng vòng tay của bạn.
Chúa chỉ là một điểm phía trước thôi mà.

Tiếng vọng

Chim hót
Vì cô đơn.
Không khí tăng lên
Còn ta nghe không bằng tai, mà chỉ
Bằng gương.

Đất

Tất cả chúng ta
Đi trên một tấm gương
Trong suốt
Trên kính
Không vẩn đục.
Nếu hoa huệ sinh ra
Từ phía khác
Nếu hoa hồng sinh ra
Từ phía khác
Nếu rễ cây dưới đất
Cũng thấy sao trời
Còn con người
Chết không nhắm mắt
Thì chúng ta muốn thành những thiên nga.

Sự bất thường

Đằng sau mỗi tấm gương
Những ngôi sao đang tắt
Và cô bé cầu vồng
Đang ngủ say như chết.

Đằng sau mỗi tấm gương
Tĩnh lặng đến tận cùng
Bầy lặng yên không cánh
Ở lại đó muôn năm.

Mặt nước phẳng như gương
Đấy là xác ướp
Ánh sáng em hãy khép
Vào giữa đêm xuân.

Mặt nước phẳng như gương
Những giọt sương đầu tiên
Đã mở ra cuốn sách
Và tiếng vọng trở thành xác thịt.


Thần đạo

Chuông vàng
Chùa rồng
Lời tilin, tilin
Trên đồng ruộng mênh mông
Mạch nước nguồn
Ngọn nguồn sự thật
Và trong khoảng cách
Diệc hồng
Núi lửa giờ đã tắt.


Mắt

Trong đôi mắt mở rộng
Có vô khối những con đường
Những ngã tư thênh thang
Ẩm ướt và rợp bóng.
Cái chết ghé thường xuyên
Từ những cánh đồng bí ẩn.
Như người làm vườn
Cắt hoa bằng nước mắt.
Đường chân trời của mắt
Muôn thuở chẳng tìm ra.
Trong những mắt này lạc lối chúng ta
Như bị lạc trong rừng trinh nữ.
Như ngôi nhà mà khi đi vào đó
Chẳng còn tìm thấy lối ra.
Và tất cả chúng ta
Đi trên con đường đó.
Hỡi cậu bé chưa có tình yêu
Hãy cầu xin Chúa
Đừng cầm lấy cành ivy màu đỏ
Elenita, em đang thêu vòng đeo vào cổ
Hãy coi chừng giùm người khách ghé qua.

Khởi thủy

Adam và Eva
Nghe theo lời con rắn
Đã đập vỡ chiếc gương ra
Thành hàng trăm mảnh
Mà hòn đá
Là quả táo ngày xưa


Suite de los espejos

Símbolo

Cristo
tenía un
espejo
en cada mano.
Multiplicaba
su propio espectro.
Proyectaba su corazón
en las miradas
negras.
¡Creo!

El gran espejo

Vivimos
bajo el gran espejo.
¡El hombre es azul!
¡Hosanna!

Reflejo

Doña Luna.
(¿Se ha roto el azogue?)
No.
¿Qué muchacho ha encendido
su linterna?

Sólo una mariposa
basta para apagarte.
Calla... ¡Pero es posible!
¡Aquella luciérnaga
es la luna!

Rayos

Todo es abanico.
Hermano, abre los brazos.
Dios es el punto.

Réplica

Un pájaro tan solo
canta.
El aire multiplica.
Oímos por espejos.

Tierra

Andamos
sobre un espejo,
sin azogue,
sobre un cristal
sin nubes.
Si los lirios nacieran
al revés,
si las rosas nacieran
al revés,
si todas las raíces
miraran las estrellas,
y el muerto no cerrara
sus ojos,
seríamos como cisnes.

Capricho

Detrás de cada espejo
hay una estrella muerta
y un arco iris niño
que duerme.

Detrás de cada espejo
hay una calma eterna
y un nido de silencios
que no han volado.

El espejo es la momia
del manantial, se cierra,
como concha de luz,
por la noche.

El espejo
es la madre-rocío,
el libro que diseca
los crepúsculos, el eco hecho carne.

Sinto

Campanillas de oro.
Pagoda dragón.
TiIín, tilín,
sobre los arrozales.
Fuente primitiva.
Fuente de la verdad.
A lo lejos,
garzas de color rosa
y el volcán marchito.

Los ojos

En los ojos se abren
infinitos senderos.
Son de encrucijadas
de la sombra.
La muerte llega siempre
de esos campos ocultos.
(Jardinera que troncha
las flores de las lágrimas.)
Las pupilas no tienen
horizontes.
Nos perdemos en ellas
como en la selva virgen.
Al castillo de irás
y no volverás
se va por el camino
que comienza en el iris.
¡Muchacho sin amor,
Dios te libre de la yedra roja!
Guárdate del viajero,
Elenita que bordas
corbatas!

Initium

Adán y Eva.
La serpiente
partió el espejo
en mil pedazos,
y la manzana
fue la piedra.





40.OMEGA
(Thơ cho những người đã chết) 

Cỏ hoa. 
Tôi cắt bàn tay bên phải. 
Chịu đựng. 
Cỏ hoa. 
Hai găng tay: một bằng thủy ngân, một bằng tơ 
Chịu đựng. 
Cỏ hoa. 
Xin hãy đừng khóc. Và im lặng 
Để không một người nào sẽ nghe ra. 
Chịu đựng. 
Cỏ hoa. 
Khi cánh cửa lớn tự mở ra 
Sẽ rơi xuống đất bức tượng. 
Cỏ hoa!

Omega
(Poema para muertos)

Las hierbas.
Yo me cortaré la mano derecha.
Espera.
Las hierbas.
Tengo un guante de mercurio y otro de seda.
Espera.
¡Las hierbas!
No solloces. Silencio, que no nos sientan.
Espera.
¡Las hierbas!
Se cayeron las estatuas
al abrirse la gran puerta.
¡¡Las hierbaaas!!


41.BÀI HÁT RU

Em đừng thở, hãy thiếp ngủ em ơi
Con thuyền trên đất của em từ ván cây sồi.

Hãy ngủ ngoan, nàng công chúa đến từ xứ lạ
Thân thể em trắng lên trong đêm khó ngủ
Thân thể em như đất đóng băng
Bình minh đã qua rồi, em hãy ngủ ngoan!

Em bơi đi, em hãy ngủ cho ngon!
Con thuyền trên đất của em từ mơ mộng, khói sương.

Canción de cuna 

Ya te vemos dormida.
Tu barca es de madera por la orilla.

Blanca princesa de nunca.
¡Duerme por la noche oscura!
Cuerpo de tierra y de nieve.
Duerme por el alba, ¡duerme!

Ya te alejas dormida.
¡Tu barca es bruma, sueño, por la orilla!


42.MỘT BÀI CA

- Nếu em nghe tiếng khóc cay đắng
Của rặng trúc đào xuyên qua tĩnh lặng
Thì em sẽ làm gì, hở em yêu?
- Em chỉ biết thở dài.

- Nếu em nhìn thấy rằng ánh sáng
Gọi em theo mình, rồi đi thẳng
Thì em sẽ làm gì, hở em yêu?
-Em sẽ nhớ về biển khơi.

- Nếu trong vườn, dưới bóng ô liu
Lời “anh yêu em” anh sẽ nói
Thì em sẽ làm gì, hở em yêu?
- Em sẽ ghìm mình lại.

Canción

Si tú oyeras 
a la amarga adelfa sollozar,
¿qué harías amor mío?
¡Suspirar!

Si tú vieras que la luz 
te llama cuando se va,
¿qué harías, amor mío?
Pensaría en el mar.

Si yo te dijera un día,
¡te amo! desde mi olivar, 
¿qué harías, amor mío?
¡Clavarme un puñal!



43.GẶP NHAU

Bây giờ anh và em đã chẳng gặp nhau
Mặt đối mặt như ngày nào.
Tự mình, em hiểu lấy
Rằng anh đã yêu người ấy.
Lạy Chúa tôi!
Em hãy bước nhẹ trên lối đi này.

Như trong ngày Chúa bị hành hình
Dấu vết từ những chiếc đinh
Trên cổ tay anh còn đọng
Và phía trước hãy còn chiếc bóng
Thấm máu rồi em không thấy hay sao?

Đừng bao giờ còn ngoái lại nhìn nhau
Em đi đi, trong sâu thẳm, hãy nguyện cầu
Ngài Cayetano thần thánh
Và hãy nói với Ngài, trong im lặng
Rằng bây giờ anh và em đã chẳng gặp nhau
Mặt đối mặt
Như ngày nào.
_______________
(1)San Cayetano (1480-1547) – người bảo hộ, che chở cho các sản phụ (bà đỡ mát tay). Truyền thuyết kể rằng, một lần có người đàn bà nhờ thánh Antonio giúp cho bà để có đứa con… mảnh giấy mà bà để vào tay Ngài sang ngày hôm sau tìm thấy trên sàn nhà có dòng chữ: “Hãy đến nhờ Thánh Cayetano, tôi bây giờ đang kì nghỉ”. Ở thủ đô Madrid của Tây Ban Nha ngày 7 tháng 8 hàng năm dân chúng kỉ niệm ngày Thánh Cayetano rất rầm rộ. Trong ngày lễ này người ta mời nhau uống Sangria và ăn các loại hoa quả của tình yêu. Ngày lễ này kéo dài đến 15-8.  

Encuentro

Ni tú ni yo estamos
en disposición
de encontrarnos.
Tú... por lo que ya sabes.
¡Yo la he querido tanto ! 
Sigue esa veredita.

En las manos
tengo los agujeros
de los clavos.
¿No ves cómo me estoy
desangrando?

No mires nunca atrás,
vete despacio
y reza como yo
a San Cayetano,
que ni tú ni yo estamos
en disposición
de encontrarnos.