Thứ Năm, 11 tháng 10, 2018

Federico García Lorca - Bài ca


42.MỘT BÀI CA

- Nếu em nghe tiếng khóc cay đắng
Của rặng trúc đào xuyên qua tĩnh lặng
Thì em sẽ làm gì, hở em yêu?
- Em chỉ biết thở dài.

- Nếu em nhìn thấy rằng ánh sáng
Gọi em theo mình, rồi đi thẳng
Thì em sẽ làm gì, hở em yêu?
-Em sẽ nhớ về biển khơi.

- Nếu trong vườn, dưới bóng ô liu
Lời “anh yêu em” anh sẽ nói
Thì em sẽ làm gì, hở em yêu?
- Em sẽ ghìm mình lại.

Canción

Si tú oyeras
a la amarga adelfa sollozar,
¿qué harías amor mío?
¡Suspirar!

Si tú vieras que la luz
te llama cuando se va,
¿qué harías, amor mío?
Pensaría en el mar.

Si yo te dijera un día,
¡te amo! desde mi olivar,
¿qué harías, amor mío?
¡Clavarme un puñal!
  

43.GẶP NHAU

Bây giờ anh và em đã chẳng gặp nhau
Mặt đối mặt như ngày nào.
Tự mình, em hiểu lấy
Rằng anh đã yêu người ấy.
Lạy Chúa tôi!
Em hãy bước nhẹ trên lối đi này.

Như trong ngày Chúa bị hành hình
Dấu vết từ những chiếc đinh
Trên cổ tay anh còn đọng
Và phía trước hãy còn chiếc bóng
Thấm máu rồi em không thấy hay sao?

Đừng bao giờ còn ngoái lại nhìn nhau
Em đi đi, trong sâu thẳm, hãy nguyện cầu
Ngài Cayetano thần thánh
Và hãy nói với Ngài, trong im lặng
Rằng bây giờ anh và em đã chẳng gặp nhau
Mặt đối mặt
Như ngày nào.
_______________
(1)San Cayetano (1480-1547) – người bảo hộ, che chở cho các sản phụ (bà đỡ mát tay). Truyền thuyết kể rằng, một lần có người đàn bà nhờ thánh Antonio giúp cho bà để có đứa con… mảnh giấy mà bà để vào tay Ngài sang ngày hôm sau tìm thấy trên sàn nhà có dòng chữ: “Hãy đến nhờ Thánh Cayetano, tôi bây giờ đang kì nghỉ”. Ở thủ đô Madrid của Tây Ban Nha ngày 7 tháng 8 hàng năm dân chúng kỉ niệm ngày Thánh Cayetano rất rầm rộ. Trong ngày lễ này người ta mời nhau uống Sangria và ăn các loại hoa quả của tình yêu. Ngày lễ này kéo dài đến 15-8. 

Encuentro

Ni tú ni yo estamos
en disposición
de encontrarnos.
Tú... por lo que ya sabes.
¡Yo la he querido tanto !
Sigue esa veredita.

En las manos
tengo los agujeros
de los clavos.
¿No ves cómo me estoy
desangrando?

No mires nunca atrás,
vete despacio
y reza como yo
a San Cayetano,
que ni tú ni yo estamos
en disposición
de encontrarnos.


Pablo Neruda về Federico Garcia Lorca


Federico từng là người như thế nào

Năm 1932, sau chuyến đi hai tháng bằng đường biển, tôi trở về Chilê. Ở đó, tôi đã xuất bản cuốn “Người bắn ná nhiệt thành”, là người đi chu du cùng tôi và cuốn “Trú ngụ trên trái đất” mà tôi đã viết ở phương Đông. Vào năm 1933, tôi được bổ nhiệm làm Lãnh sự Chilê tại Buenos Aires và vào tháng 8 tôi đã đến đó. 

Gần như cùng lúc, Federico Garcia Lorca đã đến thành phố này để cùng tôi dàn dựng vở bi kịch “Đám cưới máu” với nhóm Lola Membrive ở đó. Chúng tôi đã gặp nhau ở Buenos Aires, sau đó các nhà văn và bạn bè đã nhiều lần sắp xếp các kỳ nghỉ cho chúng tôi. Quả thật, có những rắc rối cũng đã xảy ra. Federico có những đối thủ. Tôi cũng luôn có đối thủ và cho đến ngày hôm nay không thiếu những kẻ như vậy. Những đối thủ này luôn cố gắng tắt đèn để không ai nhìn thấy bạn. Điều này cũng đã xảy ra tại thời điểm đó. Hội Văn bút (Pen Club) đã quyết định tổ chức một bữa tiệc để vinh danh chúng tôi với Federico trong khách sạn Plaza, và khi hiểu rằng có rất nhiều người muốn tham gia thì một ai đó đã suốt ngày gọi cho các số điện thoại, thông báo rằng buổi lễ đã bị hủy bỏ. Họ đã cố gắng hết sức để gọi điện cho mọi người, thậm chí còn gọi cho giám đốc khách sạn, nhân viên tổng đài điện thoại và đầu bếp để những người này không chấp nhận lời chúc mừng và không chuẩn bị bữa tối. Nhưng âm mưu của họ đã thất bại, và chúng tôi vẫn gặp Garcia Lorca trong vòng tay của hàng trăm nhà văn người Argentina.

Chúng tôi làm họ ngạc nhiên. Chúng tôi đã chuẩn bị cho anh ấy một bài phát biểu alimón. Có thể bạn không biết từ này có nghĩa là gì và tôi cũng không biết. Federico, một bậc thầy trong tất cả các ý tưởng và những trò đùa thực tế, đã giải thích:

“Có một kỹ thuật như vậy, khi hai người đấu bò chống lại một con bò đực dùng một chiếc áo choàng cho hai người. Đây là một trong những kỹ thuật nguy hiểm nhất trong nghệ thuật đấu bò. Bởi thế, điều này rất ít khi xảy ra. Nó chỉ xảy ra hai hoặc ba lần trong một trăm năm, và điều này chỉ có thể xảy ra nếu hai người đấu là anh em ruột hoặc họ có cùng huyết thống. Đây được gọi là trận chiến al alimón, và hôm nay chúng ta sẽ làm điều tương tự với bài phát biểu”.

Và chúng tôi đã làm điều đó nhưng không một ai biết trước. Khi đến thời điểm cảm ơn vị Chủ tịch của Hội Văn bút cho bữa tiệc, chúng tôi đã đứng dậy cả hai cùng một lúc, như hai người đấu bò, để nói một lời phát biểu. Mọi người đang ngồi ở những bàn riêng biệt, Federico – ở một đầu, còn tôi – ở đầu kia, và khi cả hai chúng tôi cùng đứng dậy thì những người ngồi cạnh tôi, nghĩ rằng có sự nhầm lẫn gì đấy, đã kéo áo khoác của tôi để tôi ngồi xuống, và những người ngồi cạnh Federico, cũng kéo anh ta như vậy. Chúng tôi bắt đầu nói cùng với nhau, tôi bắt đầu nói: “Thưa các Quí bà…”, thì Federico tiếp tục: “và thưa các Quí ông…”, và cứ lần lượt như vậy để có được một bài phát biểu thống nhất. Bài phát biểu này được dành riêng cho Rubén Darío, bởi vì cả García Lorca và tôi, mặc dù không ai có thể nghi ngờ chúng tôi về chủ nghĩa hiện đại, đã tôn vinh Rubén Darío là một trong những người sáng tạo tuyệt vời của ngôn ngữ thơ bằng tiếng Tây Ban Nha.

Dưới đây là nội dung của bài phát biểu này.

NERUDA. Thưa các quý bà...

LORCA ... và thưa các quý ông! Có một kỹ thuật trong đấu bò, được gọi là al alimón khi hai người đấu né con bò, trốn đằng sau một chiếc áo choàng.

NERUDA. Federico và tôi, được kết nối bằng một sợi dây điện, sẽ biểu diễn theo cặp tại buổi lễ quan trọng này.

LORCA. Đã trở thành một thông lệ: tại các cuộc hội ngộ như ngày hôm nay, các nhà thơ thể hiện bằng một ngôn ngữ sống động – gõ vào bạc hoặc gỗ, mỗi người theo cách riêng của mình để chào đón bạn bè.

NERUDA. Nhưng hôm nay chúng tôi sẽ mời một thực khách đến dự cùng quí vị, người này không còn sống trên đời nữa, là một trong những người được ẩn trong bóng tối của cái chết, cái chết lớn nhất của tất cả các trường hợp tử vong, chúng tôi sẽ gọi ông là người góa vợ của cuộc đời, mà ông là một người chồng mẫu mực đã từng. Chúng ta sẽ ẩn mình trong cái bóng rực lửa của ông và bắt đầu lặp lại tên ông cho đến một khi ông xuất hiện trở lại từ quên lãng.

LORCA. Và sau đó chúng tôi – với sự dịu dàng của chim cánh cụt trước khi tỏ lòng kính trọng với nhà thơ tài hoa Amado Villar – sẽ ném cái tên vĩ đại này lên khăn trải bàn, chúng tôi biết rằng ly sẽ vỡ, dĩa sẽ nhảy trên bàn và bức tường biển sẽ sụp đổ trên chiếc khăn trải bàn này. Chúng tôi sẽ gọi tên nhà thơ của châu Mỹ và Tây Ban Nha: Rubén ... 

NERUDA. Dario, Bởi vì thưa các quý bà ...

LORCA ... và thưa các quý ông ...

NERUDA. Quảng trường Rubén Darío ở đâu tại Buenos Aires? 

LORCA. Tượng đài Rubén Darío nằm ở đâu?

NERUDA. Ông từng rất yêu công viên. Vậy thì công viên Rubén Darío nằm ở đâu?

LORCA. Cửa hàng hoa Rubén Darío ở đâu? 

NERUDA. Những cây táo ở đâu, những quả táo mang tên Rubén Darío ở đâu?

LORCA. Cánh tay của Rubén Darío bị chặt ở đâu?  

NERUDA. Dầu ở đâu, nhựa ở đâu, thiên nga được đặt tên theo Rubén Darío ở đâu rồi?

LORCA. Rubén Darío yên nghỉ tại “Nicaragua quê hương” của mình, dưới một con sư tử bằng đá cẩm thạch đáng sợ, giống như những người giàu có đặt ở cổng vào nhà của họ.

NERUDA. Một con sư tử từ cửa hàng dành cho người tạo ra sư tử, một con sư tử không quen thuộc với các ngôi sao dành cho người có quyền năng trao những ngôi sao cho người khác.

LORCA. Với một tính từ, ông có thể truyền tải tiếng ồn của Selva và, giống như Luis de Granada, chúa tể của ngôn ngữ, vươn lên tầm cao đầy sao với những bông hoa chanh, và với một con nai, với những động vật thân mềm đầy sợ hãi, ông dẫn chúng ta xuống biển trên những chiếc thuyền buồm và bóng tối ẩn trong con ngươi của chúng ta, tạo nên một đám rước rượu khổng lồ qua màu xám nhất của buổi tối mà bầu trời có. Như một nhà thơ lãng mạn, ông bị ngăn cách với những cơn gió nam và dựa vào vòm cột Corinto, hít thở sâu, nhìn thế giới với một sự nghi ngờ buồn bã và mỉa mai sống qua bao thời đại.

NERUDA. Cái tên màu đỏ của ông xứng đáng với tất cả mọi ký ức, xứng đáng với ký ức hành hạ trái tim ông, sự lang thang của ông trong tất cả các vòng địa ngục và lên đến những cung điện vinh quang – đấy là tất cả những gì đi kèm với nhà thơ vĩ đại, bây giờ và mãi mãi.

LORCA. Ông là nhà thơ Tây Ban Nha, ông là một bậc thầy của những bậc thầy già và vẫn còn rất trẻ ở Tây Ban Nha; ông là một người cố vấn phổ quát và hào phóng, điều mà các nhà thơ đương thời của chúng ta thiếu rất nhiều. Ông là người thầy của Valle Inclan và Juan Ramon Jimenez, người thầy của anh em Machado; giọng nói của ông là nước và muối tiêu trong lưỡi. Kể từ thời Rodrigo Caro, anh em nhà Argensolas hay don Juan Arguijo, người Tây Ban Nha đã không có một bữa tiệc như vậy, một cuộc đụng độ của các phụ âm, của ánh sáng và hình thức như trong thơ của Rubén Darío. Từ phong cảnh của Velázquez, lửa trại của Goya, từ sự u sầu của Quevedo và màu hồng trên má của các cô thôn nữ Mallorca – Darío đi trên vùng đất Tây Ban Nha như trên vùng đất thân thuộc của mình.  
NERUDA. Thủy triều, biển ấm ở phương bắc đã đưa ông đến bờ biển Chilê và để ông trên một bờ đá cứng, đại dương đánh vào ông và ngân vang bằng bọt biển và tiếng chuông của mình, và ngọn gió đen của Valparaíso lấp ông bằng muối. Hôm nay chúng ta hãy tạo ra một tượng đài cho ông từ gió bị khói và giọng nói xuyên qua, từ mọi thứ xung quanh chúng ta, từ cuộc sống, bởi vì những vần thơ tuyệt vời của ông từng vượt qua tiếng động và những giấc mơ. 

LORCA. Nhưng tôi muốn đổ máu của ông lên bức tượng bằng gió này, giống như một nhánh san hô nhảy nhót và múa may trên sóng, và bó dây thần kinh như chùm những tia sáng, và cái đầu của nhân ngưu, nơi mà tuyết Gongora được vẽ bằng đường bay của chim ong, một ánh nhìn thông qua hàng triệu giọt nước mắt, và cả những khiếm khuyết. Những kệ sách của ông có đầy những bông hoa tươi tốt, những khoảng lặng ngừng, có tiếng sáo hát, có những chai rượu cognac với sự say sưa đầy kịch tính, sự quyến rũ đầy mùi vị xấu xa và những lời nói thẳng thắn đáng xấu hổ này làm cho đám đông của thơ ông trở nên gần gũi với đời thường. Và bây giờ, vượt lên trên tất cả các chuẩn mực, vượt qua mọi hình thức và trường phái, khả năng sinh sôi nảy nở của thơ ông tiếp tục sống.

NERUDA. Federico García Lorca là người Tây Ban Nha, và tôi là người Chilê, trong vòng tay của anh em bè bạn, chúng tôi xin cúi đầu trước hình bóng vĩ đại, người đã từng hát cao hơn chúng tôi và giọng hát này đã từng ca ngợi đất nước Argentina, nơi mà chúng tôi đang có mặt ngày hôm nay.

LORCA. Pablo Neruda là người Chile, và tôi là người Tây Ban Nha, chúng ta có một ngôn ngữ chung và có chung một nhà thơ lớn của Nicaragua, của Argentina, của Chilê và của Tây Ban Nha – nhà thơ Rubén Darío vĩ đại.

NERUDA và LORCA. Chúng ta cùng nâng cốc chúc mừng vinh quang và danh dự của ông. 


** ** 

Tôi nhớ một ngày, tôi đột nhiên nhận được sự ủng hộ của Federico trong một cuộc phiêu lưu tình ái hoàn vũ. Một buổi tối, Federico và tôi đến thăm một triệu phú –một trong số những người chỉ có thể có ở Argentina và Hoa Kỳ. Đó là một người đàn ông nổi loạn và tự học, người đã tạo ra một tài sản lớn bằng một tờ báo chuyên đưa tin giật gân.Ngôi nhà của ông có một công viên rộng lớn bao quanh, là hiện thân những giấc mơ của một người giàu mới nổi.

Hàng trăm lồng chim trĩ đủ màu sắc từ tất cả các quốc gia treo dọc các lối đi. Thư viện chất đầy những cuốn sách cũ nhất mà chủ sở hữu đã mua bằng điện tín tại các cuộc đấu giá của các nhà thư tịch châu Âu, ngoài ra, nó rất lớn, có rất nhiều sách trong đó. Nhưng điều ngoạn mục nhất là sàn của phòng đọc khổng lồ này được bao phủ hoàn toàn bằng da báo được khâu lại với nhau để tạo thành một tấm thảm khổng lồ duy nhất. Tôi được biết rằng chủ sở hữu có các đại lý đặc biệt ở Châu Phi, Châu Á và Amazon, những người chỉ tham gia vào việc mua da của báo, đại bàng, những giống mèo quí hiếm, và bây giờ da của chúng lấp lánh dưới chân tôi trong thư viện tuyệt vời này. 

Đó là ngôi nhà của Natalio Botan nổi tiếng, một nhà tư bản có ảnh hưởng, người làm chủ dư luận xã hội ở thành phố Buenos Aires. Federico và tôi ngồi gần chủ nhà, đối diện với chúng tôi là một nữ thi sĩ có dáng người cao, mái tóc vàng, đôi mắt màu xanh của cô ấy nhìn tôi thường xuyên hơn nhiều so với Federico.  

Một con bò nướng nguyên con được phục vụ cho bữa tối, con bò được mang thẳng từ lò nướng khổng lồ, do tám hoặc mười người gáucho* khiêng trên một chiếc cáng lớn. Đêm thật xanh và đầy sao. Mùi thơm của thịt rang trên da, một phát minh siêu phàm của người Argentina, được hòa quyện trong không khí của đầm lầy, với mùi thơm của cỏ ba lá và bạc hà, với tiếng rì rào của hàng ngàn con dế và nòng nọc. 

Sau bữa tối, chúng tôi đứng dậy khỏi bàn – tôi cùng với nữ thi sĩ và Federico, người luôn vui vẻ và không ngừng cười. Chúng tôi di chuyển về phía hồ bơi được chiếu sáng. García Lorca đã ở phía trước, tiếp tục cười và nói chuyện. Anh cảm thấy hạnh phúc. Lorca là người như vậy. Hạnh phúc là làn da của anh.

Một tòa tháp vươn cao trên hồ bơi đầy ánh sáng. Dưới ánh đèn đêm tòa tháp tỏa sáng bằng vôi trắng.

Chúng tôi từ từ leo lên sân thượng của tòa tháp. Và ở đó, ba chúng tôi, những nhà thơ khác nhau về phong cách, cảm thấy mình đã tách khỏi thế giới. Bên dưới, con mắt xanh của hồ bơi lấp lánh. Chúng tôi vẫn còn nghe rõ tiếng guitar và những bài hát của bữa tiệc. Đêm ở phía trên chúng tôi, rất gần và đầy sao, đến nỗi có cảm giác dường như nó sắp áp đảo và nhấn chìm chúng tôi vào chiều sâu của nó.

Tôi ôm hôn cô gái tóc vàng cao lớn và tôi nhận ra rằng cô ấy là một người phụ nữ bằng xương bằng thịt, và xác thịt là cảm nhận được. Trước sự ngạc nhiên của Federico, chúng tôi nằm xuống sàn và tôi bắt đầu cởi quần áo của cô ấy, khi tôi bất chợt nhìn thấy phía trên chúng tôi, đôi mắt to lớn của Federico đang nhìn chăm chú, anh nhìn mà không dám tin những gì đang xảy ra.

- Ra khỏi đây đi! Đi canh cầu thang để không ai lên đây! – tôi hét lên với anh.

Và trong khi sự hiến sinh cho bầu trời đầy sao và nữ thần của tình yêu và sắc đẹp đang diễn ra trên tầng thượng của tòa tháp, Federico đã vui vẻ chạy đi để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó – làm một ma cô và một người canh gác – nhưng anh ấy đã vội vàng và rất không may mắn khi bị ngã xuống và đếm các bậc cầu thang. Bạn gái tôi và tôi – dù đã rất khó khăn – cũng phải đến giúp anh ấy. Đôi chân của anh khập khiễng trong suốt mười lăm ngày.

= = = 
Chú thích những tên riêng trong bài:

*Rubén Darío (1867 – 1916) – nhà thơ Mỹ Latinh đầu tiên nổi tiếng thế giới, một trong những đại diện nổi bật nhất của chủ nghĩa hiện đại trong văn học Tây Ban Nha.
*Luis de Granada (1504 – 1588) – Nhà thần học người Tây Ban Nha 
*Ramón María del Valle-Inclán (1866 – 1936) – Nhà văn Tây Ban Nha 
*Juan Ramón Jiménez (1881 – 1958) – Nhà thơ Tây Ban Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1956 
*Rodrigo Caro (1573 – 1647) – Nhà bác học, nhà thơ Tây Ban Nha

*Gáucho – những người giống như cao bồi ở Mỹ

Xem tiếp
Ở ĐÂY


Lorca - Thơ cho những người đã chết


40.OMEGA
(Thơ cho những người đã chết)

Cỏ hoa.
Tôi cắt bàn tay bên phải.
Chịu đựng.
Cỏ hoa.
Hai găng tay: một bằng thủy ngân, một bằng tơ
Chịu đựng.
Cỏ hoa.
Xin hãy đừng khóc. Và im lặng
Để không một người nào sẽ nghe ra.
Chịu đựng.
Cỏ hoa.
Khi cánh cửa lớn tự mở ra
Sẽ rơi xuống đất bức tượng.
Cỏ hoa!

Omega
(Poema para muertos)

Las hierbas.
Yo me cortaré la mano derecha.
Espera.
Las hierbas.
Tengo un guante de mercurio y otro de seda.
Espera.
¡Las hierbas!
No solloces. Silencio, que no nos sientan.
Espera.
¡Las hierbas!
Se cayeron las estatuas
al abrirse la gran puerta.
¡¡Las hierbaaas!!
  


41.BÀI HÁT RU

Em đừng thở, hãy thiếp ngủ em ơi
Con thuyền trên đất của em từ ván cây sồi.

Hãy ngủ ngoan, nàng công chúa đến từ xứ lạ
Thân thể em trắng lên trong đêm khó ngủ
Thân thể em như đất đóng băng
Bình minh đã qua rồi, em hãy ngủ ngoan!

Em bơi đi, em hãy ngủ cho ngon!
Con thuyền trên đất của em từ mơ mộng, khói sương.

Canción de cuna

Ya te vemos dormida.
Tu barca es de madera por la orilla.

Blanca princesa de nunca.
¡Duerme por la noche oscura!
Cuerpo de tierra y de nieve.
Duerme por el alba, ¡duerme!

Ya te alejas dormida.
¡Tu barca es bruma, sueño, por la orilla!


Thơ Lorca - Tổ khúc gương


39.TỔ KHÚC GƯƠNG

Biểu tượng

Chúa Giê-su
Cầm trong mỗi bàn tay
Là một chiếc gương.
Hình bóng Ngài rung
Và được nhân lên.
Những ánh nhìn màu đen
Bằng trái tim
Làm cho hoàn chỉnh.
Tôi tin!

Suite de los espejos

Símbolo

Cristo
tenía un
espejo
en cada mano.
Multiplicaba
su propio espectro.
Proyectaba su corazón
en las miradas
negras.
¡Creo!


Gương lớn

Chúng ta đang sống
Dưới một tấm gương lớn
Con người là màu xanh!
Hosanna!

El gran espejo

Vivimos
bajo el gran espejo.
¡El hombre es azul!
¡Hosanna!


Sự phản chiếu

Chị Hằng
(Là thủy ngân rót ra chăng?)
Không hẳn thế.
Cậu bé con nào thắp lửa
Cho đèn của chị Hằng?

Chỉ con bướm bay lên
Là tất cả chìm vào bóng đêm.
Không thể nào… xin im lặng
Đấy là đom đóm
Đấy là trăng.

Reflejo

Doña Luna.
(¿Se ha roto el azogue?)
No.
¿Qué muchacho ha encendido
su linterna?

Sólo una mariposa
basta para apagarte.
Calla... ¡Pero es posible!
¡Aquella luciérnaga
es la luna!


Những tia sáng

Tất cả xung quanh là chiếc quạt mở to
Người anh em, hãy mở rộng vòng tay của bạn.
Chúa chỉ là một điểm phía trước thôi mà.

Rayos

Todo es abanico.
Hermano, abre los brazos.
Dios es el punto.


Tiếng vọng

Chim hót
Vì cô đơn.
Không khí tăng lên
Còn ta nghe không bằng tai, mà chỉ
Bằng gương.

Réplica

Un pájaro tan solo
canta.
El aire multiplica.
Oímos por espejos.


Đất

Tất cả chúng ta
Đi trên một tấm gương
Trong suốt
Trên kính
Không vẩn đục.
Nếu hoa huệ sinh ra
Từ phía khác
Nếu hoa hồng sinh ra
Từ phía khác
Nếu rễ cây dưới đất
Cũng thấy sao trời
Còn con người
Chết không nhắm mắt
Thì chúng ta muốn thành những thiên nga.

Tierra

Andamos
sobre un espejo,
sin azogue,
sobre un cristal
sin nubes.
Si los lirios nacieran
al revés,
si las rosas nacieran
al revés,
si todas las raíces
miraran las estrellas,
y el muerto no cerrara
sus ojos,
seríamos como cisnes.


Sự bất thường

Đằng sau mỗi tấm gương
Những ngôi sao đang tắt
Và cô bé cầu vồng
Đang ngủ say như chết.

Đằng sau mỗi tấm gương
Tĩnh lặng đến tận cùng
Bầy lặng yên không cánh
Ở lại đó muôn năm.

Mặt nước phẳng như gương
Đấy là xác ướp
Ánh sáng em hãy khép
Vào giữa đêm xuân.

Mặt nước phẳng như gương
Những giọt sương đầu tiên
Đã mở ra cuốn sách
Và tiếng vọng trở thành xác thịt.

Capricho

Detrás de cada espejo
hay una estrella muerta
y un arco iris niño
que duerme.

Detrás de cada espejo
hay una calma eterna
y un nido de silencios
que no han volado.

El espejo es la momia
del manantial, se cierra,
como concha de luz,
por la noche.

El espejo
es la madre-rocío,
el libro que diseca
los crepúsculos, el eco hecho carne.


Thần đạo

Chuông vàng
Chùa rồng
Lời tilin, tilin
Trên đồng ruộng mênh mông
Mạch nước nguồn
Ngọn nguồn sự thật
Và trong khoảng cách
Diệc hồng
Núi lửa giờ đã tắt.

Sinto

Campanillas de oro.
Pagoda dragón.
TiIín, tilín,
sobre los arrozales.
Fuente primitiva.
Fuente de la verdad.
A lo lejos,
garzas de color rosa
y el volcán marchito.


Mắt

Trong đôi mắt mở rộng
Có vô khối những con đường
Những ngã tư thênh thang
Ẩm ướt và rợp bóng.
Cái chết ghé thường xuyên
Từ những cánh đồng bí ẩn.
Như người làm vườn
Cắt hoa bằng nước mắt.
Đường chân trời của mắt
Muôn thuở chẳng tìm ra.
Trong những mắt này lạc lối chúng ta
Như bị lạc trong rừng trinh nữ.
Như ngôi nhà mà khi đi vào đó
Chẳng còn tìm thấy lối ra.
Và tất cả chúng ta
Đi trên con đường đó.
Hỡi cậu bé chưa có tình yêu
Hãy cầu xin Chúa
Đừng cầm lấy cành ivy màu đỏ
Elenita, em đang thêu vòng đeo vào cổ
Hãy coi chừng giùm người khách ghé qua.

Los ojos

En los ojos se abren
infinitos senderos.
Son de encrucijadas
de la sombra.
La muerte llega siempre
de esos campos ocultos.
(Jardinera que troncha
las flores de las lágrimas.)
Las pupilas no tienen
horizontes.
Nos perdemos en ellas
como en la selva virgen.
Al castillo de irás
y no volverás
se va por el camino
que comienza en el iris.
¡Muchacho sin amor,
Dios te libre de la yedra roja!
Guárdate del viajero,
Elenita que bordas
corbatas!


Khởi thủy

Adam và Eva
Nghe theo lời con rắn
Đã đập vỡ chiếc gương ra
Thành hàng trăm mảnh
Mà hòn đá
Là quả táo ngày xưa

Initium

Adán y Eva.
La serpiente
partió el espejo
en mil pedazos,
y la manzana

fue la piedra.




Tình yêu ngủ trong ngực nhà thơ


38.TÌNH YÊU NGỦ TRONG NGỰC NHÀ THƠ

Em đâu hiểu anh yêu đến mức nào
Em ngủ say giữa lòng anh như thế
Anh giấu em, hôn em và nức nở
Trong tiếng kêu của dao thép xuyên vào.

Cả xác thân và cả những vì sao
Đã làm cho lồng ngực này đau đớn
Và đôi cánh đã làm cho cơn giận
Bỗng dâng trào như vết cắn của dao.

Giờ người ta đang nhảy trong khu vườn
Đợi xác thân và tiếng lòng nức nở
Bờm ngựa ngời lên ánh sáng màu xanh

Hãy ngủ yên, lẽ sống của đời anh
Em có nghe trong cây đàn máu vỡ
Và đang đợi chờ cả em và anh.

El amor duerme en el pecho del poeta

Tú nunca entenderás lo que te quiero
porque duermes en mí y estás dormido.
Yo te oculto llorando, perseguido
por una voz de penetrante acero.

Norma que agita igual carne y lucero
traspasa ya mi pecho dolorido
y las turbias palabras han mordido
las alas de tu espíritu severo.

Grupo de gente salta en los jardines
esperando tu cuerpo y mi agonía
en caballos de luz y verdes crines.

Pero sigue durmiendo, vida mía.
Oye mi sangre rota en los violines.
¡Mira que nos acechan todavía!




Thơ Lorca - Để người yêu sẽ viết thư



El poeta pide a su amor que le escriba

Amor de mis entrañas, viva muerte,
en vano espero tu palabra escrita
y pienso, con la flor que se marchita,
que si vivo sin mí quiero perderte.

El aire es inmortal. La piedra inerte
Ni conoce la sombra ni la evita.
Corazón interior no necesita
la miel helada que la luna vierte.

Pero yo te sufrí. Rasgué mis venas,
tigre y paloma, sobre tu cintura
en duelo de mordiscos y azucenas.

Llena, pues, de palabras mi locura
o déjame vivir en mi serena
noche del alma para siempre oscura.
  


37.SONNET LỜI OÁN TRÁCH NGỌT NGÀO

Anh sợ đánh mất điều kì diệu trắng trong
Đôi mắt ướt của em chỉ còn im lặng
Anh sợ, trong cái đêm này anh đã chẳng
Áp mặt vào hơi thở của hoa hồng.

Anh sợ rằng đống lá chết từ lâu
Lên bờ bến bí huyền kia sẽ trải
Anh không muốn mang theo mình cây trái
Nơi giấu mình đau đớn những loài sâu.

Nếu kho báu của anh em đã mang theo
Nếu em là nỗi đau của anh, thì đừng thương xót nhé
Nếu, thậm chí với em, anh chỉ là con chó.

Thì bông lúa của mất mát cuối cùng em đừng cắt bỏ
Và hãy để trên dòng sông em rắc những chiếc lá vàng
Rụng xuống từ mùa thu đã đi qua của anh.
  
Soneto de la dulce queja

Tengo miedo a perder la maravilla
de tus ojos de estatua y el acento
que me pone de noche en la mejilla
la solitaria rosa de tu aliento.

Tengo pena de ser en esta orilla
tronco sin ramas, y lo que más siento
es no tener la flor, pulpa o arcilla,
para el gusano de mi sufrimiento.

Si tú eres el tesoro oculto mío,
si eres mi cruz y mi dolor mojado,
si soy el perro de tu señorío.

No me dejes perder lo que he ganado
y decora las aguas de tu río
con hojas de mi Otoño enajenado.



Bài thơ về bàn tay không thể có


34.BÀI THƠ VỀ BÀN TAY KHÔNG THỂ CÓ

Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Bàn tay bị thương, nếu như có thể
Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Dù cả nghìn đêm không còn giường ngủ.

Giá mà được màu thạch cao trắng toát
Chim bồ câu đem buộc chặt vào tim
Cô y tá như vầng trăng mờ mịt
Đêm cuối cùng không được ghé vô thăm.

Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Để mặc áo, xức dầu cho đau đớn
Ta không cần nhiều hơn một bàn tay
Cho cái chết sau này đôi cánh trắng.

Tất cả trong đời rồi sẽ qua nhanh
Cả ngân hà và hồi quang ngời sáng
Chỉ còn lại cơn gió buồn khóc rống
Về mùa thu, những chiếc lá cuối cùng.


Casida de la mano imposible

Yo no quiero más que una mano,
una mano herida, si es posible.
Yo no quiero más que una mano,
aunque pase mil noches sin lecho.

Sería un pálido lirio de cal,
sería una paloma amarrada a mi corazón,
sería el guardían que en la noche de mi tránsito
prohibiera en absoluto la entrada a la luna.

Yo no quiero más que esa mano
para los diarios aceites y la sábana blanca de mi agonía
Yo no quiero más que esa mano
para tener un ala de mi muerte.

Lo demás todo pasa.
Rubor sin nombre ya, astro perpetuo.
Lo demás es lo otro; viento triste,
mientras las hojas huyen en bandadas.
 

35.BÀI THƠ VỀ HOA HỒNG

Hoa hồng
Đã không còn đi tìm ánh bình minh
Mà hoa đi tìm
Hoa đi tìm cái khác.

Giờ ánh sáng hoa không còn khao khát
Cả bóng tối và cơn nóng cũng không
Trong cõi mơ màng
Hoa đi tìm cái khác.

Hoa hồng
Nằm bất động dưới trăng
Không tìm kiếm hoa hồng
Hoa đi tìm cái khác.

Casida de la rosa

La rosa
no buscaba la aurora:
casi eterna en su ramo,
buscaba otra cosa.

La rosa,
no buscaba ni ciencia ni sombra:
confín de carne y sueño,
buscaba otra cosa.

La rosa,
no buscaba la rosa.
Inmóvil por el cielo
buscaba otra cosa.



Lorca - Bài thơ về sự chạy trốn


32.BÀI THƠ VỀ SỰ CHẠY TRỐN

Tôi nhiều lần đã bị mất trong biển
Với ký ức và hoa cỏ rắc đầy
Có đầy đủ tình yêu và đau đớn
Tôi nhiều lần đã bị mất trong biển
Hễ bị mất trong tim của trẻ em.

Không có đêm, mà đem cho nụ hôn
Không cảm nhận nụ cười vô tư lự
Không có người bên nôi trẻ sơ sinh
Không  nhớ về hộp sọ dừa của ngựa.

Bởi một điều khi đi tìm hoa hồng –
Hình phù điêu chìm khắc nghiệt của xương
Và một điều đôi bàn tay thành thạo –
Bắt chước theo những bộ rễ đã chôn.

Hễ bị mất trong tim của trẻ em
Tôi nhiều lần đã bị mất trong biển.
Kẻ mù quáng, cái chết tôi đi tìm
Cái chết đủ đầy của ngày cuối tận.

Gacela de la huida

Me he perdido muchas veces por el mar
con el oído lleno de flores recién cortadas,
con la lengua llena de amor y de agonía.
Muchas veces me he perdido por el mar,
como me pierdo en el corazón de algunos niños.

No hay noche que, al dar un beso,
no sienta la sonrisa de las gentes sin rostro,
ni hay nadie que, al tocar un recién nacido,
olvide las inmóviles calaveras de caballo.

Porque las rosas buscan en la frente
un duro paisaje de hueso
y las manos del hombre no tienen más sentido
que imitar a las raíces bajo tierra.

Como me pierdo en el corazón de algunos niños,
me he perdido muchas veces por el mar.
Ignorante del agua voy buscando
una suerte de luz que me consuma.
  
33.BÀI THƠ VỀ TIẾNG
KHÓC

Tôi đóng hết cửa ban-công
Để ẩn náu mình sau tiếng khóc
Nhưng sau bức tường xám lạnh lạnh lùng
Không nghe thấy gì, ngoài tiếng khóc.

Không nghe tiếng của thiên thần
Tiếng chó sủa không còn sức mạnh
Và tiếng một nghìn cây vĩ cầm
Lọt thỏm trong bàn tay tôi nhỏ nhắn.

Chỉ tiếng khóc là thiên thần duy nhất
Chỉ con chó là tiếng khóc lớn nhất
Tiếng khóc như cây vĩ cầm mênh mang
Và cơn gió bỗng nghẹ ngào nước mắt
Không nghe thấy gì chỉ còn tiếng khóc.

Casida del llanto

He cerrado mi balcón
por que no quiero oír el llanto
pero por detrás de los grises muros
no se oye otra cosa que el llanto.

Hay muy pocos ángeles que canten,
hay muy pocos perros que ladren,
mil violines caben en la palma de mi mano.

Pero el llanto es un perro inmenso,
el llanto es un ángel inmenso,
el llanto es un violín inmenso,
las lágrimas amordazan al viento,
no se oye otra cosa que el llanto.